Tin tức
on Sunday 22-12-2024 7:47am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Huỳnh Yến Vy – IVFMD Phú Nhuận, Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận
Trong những năm gần đây, hệ thống theo dõi phôi liên tục (Time-lapse system - TLS) đã trở thành công cụ đầy hứa hẹn cung cấp các thông số về hình thái và động học của phôi. Các thông số động học và các quá trình phân chia tế bào trong quá trình phát triển của phôi giúp đưa ra quyết định chính xác hơn về phôi chuyển so với đánh giá thông thường tại một thời điểm bằng kính hiển vi. Ngoài việc ghi lại chính xác các sự kiện như là lần phân chia đầu tiên, hệ thống nuôi cấy phôi timelapse còn ghi lại những sự kiện chưa được biết đến, chẳng hạn như nguyên phân đa cực, phân chia trực tiếp, phân chia ngược và phân chia bất thường ở phôi tiền làm tổ có thể được đánh giá chi tiết hơn.
Dạng phân chia bất thường phổ biến nhất và gây ra nhiều ảnh hưởng đến phôi là phân chia trực tiếp (Direct Uneven Cleavage – DUC), có nghĩa là trong đó có một phôi bào phân chia trực tiếp từ một tế bào thành ba hoặc nhiều tế bào. DUC nếu xảy ra ở lần phân bào đầu tiên, vật chất di truyền ở các tế bào không đồng đều nhau làm ảnh hưởng tính nguyên vẹn của bộ nhiễm sắc thể của phôi. Các nghiên cứu đã chỉ ra DUC là chỉ số tiên lượng xấu cho sự hình thành và phát triển của phôi. Ngoài ra, một dạng bất thường khác là phân chia sớm (early cleavage hoặc rapid cleavage) - ảnh hưởng đến sự phân bố nhiễm sắc thể trong phôi bào, điều này làm ảnh hưởng đến khả năng phát triển của phôi. Sự nén chặt của phôi trong quá trình hình thành phôi dâu cũng là yếu tố động học giúp đánh giá tiềm năng phát triển lên phôi nang. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy hiện tượng dâu được nén một phần (partially compacted morulae - PCM) là hiện tượng các tế bào tống xuất trong quá trình nén ban đầu hoặc được loại bỏ khi phôi dâu đã nén chặt. Những bất thường này dẫn đến phôi có đánh giá về hình thái và động học hình thái thấp hơn và có thể ảnh hưởng đến chất lượng và khả năng làm tổ của phôi. Sự lệch bội của phôi ảnh hưởng đến khả năng làm tổ và tăng tỉ lệ sẩy thai. Chính vì thế, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT-A) trở thành một kỹ thuật với mục đích cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống trong mỗi lần chuyển. Cùng với sự phát triển của TLS và PGT-A giúp chuyên viên phôi học có nhiều thông tin trong việc lựa chọn phôi cho bệnh nhân trong chu kì thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization – IVF)
Mục tiêu:
Phân tích mối liên quan giữa sự phân chia bất thường, sự nén chặt trong quá trình hình thành phôi dâu và kết quả di truyền của các phôi phát triển thành phôi nang tương ứng.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu đánh giá 835 phôi nang từ 195 chu kỳ ICSI từ 189 bệnh nhân thực hiện xét nghiệm PGT-A. Các phân tích về đặc điểm của phôi là phân chia trực tiếp và sự nén của phôi được thực hiện cho tất cả các phôi nang và chia thành 3 nhóm dựa vào tuổi mẹ: <38 tuổi (n=314), 38–40 tuổi (n=323) và >40 tuổi (n=198).
Ngoài ra, dựa vào sự phân chia bình thường (normal cleavage – NC) hoặc bất thường (anomalous cleavage – AC) của phôi và sự nén hoàn toàn (full compacted morula – FCM) hoặc một phần (partially compacted morulae - PCM) của phôi dâu được chia thành bốn nhóm
(i) sự phân chia bình thường và sự nén hoàn toàn (NC-FCM);
(ii) sự phân chia bất thường và sự nén hoàn toàn (AC-FCM);
(iii) sự phân chia bình thường và phôi nén một phần (NC-PCM);
(iv) sự phân chia bất thường và phôi nén một phần (AC-PCM).
Kết quả
- Trong tổng 832 phôi, phôi phân chia bình thường (NC) là 697 chiếm 83% và phôi dâu nén chặt hoàn toàn (FCM) là 516 phôi chiếm 62%.
- Phôi được đánh giá cả về hình thái và động học hình thái bằng cách sử dụng hệ thống
Embryoscope – KIDScore. Khi đánh giá tỷ lệ phôi lệch bội ở tất cả nhóm tuổi, nhóm phôi phân chia bình thường và sự nén diễn ra hoàn toàn (NC-FCM) có tỷ lệ phôi lệch bội thấp nhất, tỷ lệ này càng tăng ở nhóm AC-PCM. Tuy nhiên, khi xét về độ tuổi của phụ nữ, có sự khác biệt về tỷ lệ phôi lệch bội ở nhóm <38 tuổi và nhóm >40 tuổi có ý nghĩa thống kê trong đánh giá KIDscore (nhóm <38 tuổi p<0,001,
nhóm >40 tuổi p=0,024).
- Về kết quả xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT-A), tỷ lệ lệch bội được đánh giá ở ba nhóm phôi: NC-FCM, NC-PCM và AC-PCM (Hình 1)
Đối với phụ nữ > 40 tuổi, phôi phân chia bình thường với sự nén chặt hoàn toàn (NC-FCM) cho thấy tỷ lệ lệch bội thấp hơn, gần tương đương với tỷ lệ ở phôi của nhóm phụ nữ tuổi 38–40 tuổi. Tuy nhiên, tỷ lệ lệch bội cao hơn ở phôi NC-PCM và AC-PCM.
Kết luận:
Với những phát hiện về sự phân chia bất thường của phôi và sự nén chặt hình thành phôi dâu thông qua hệ thống theo dõi phôi liên tục có thể góp phần trong việc lựa chọn phôi để sinh thiết hoặc chuyển cho bệnh nhân khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm.
Tài liệu tham khảo: De Martin, H., Bonetti, T. C. S., Nissel, C. A. Z., Gomes, A. P., Fujii, M. G., & Monteleone, P. A. A. (2024). Association of early cleavage, morula compaction and blastocysts ploidy of IVF embryos cultured in a time-lapse system and biopsied for genetic test for aneuploidy. Scientific Reports, 14(1), 739.
Trong những năm gần đây, hệ thống theo dõi phôi liên tục (Time-lapse system - TLS) đã trở thành công cụ đầy hứa hẹn cung cấp các thông số về hình thái và động học của phôi. Các thông số động học và các quá trình phân chia tế bào trong quá trình phát triển của phôi giúp đưa ra quyết định chính xác hơn về phôi chuyển so với đánh giá thông thường tại một thời điểm bằng kính hiển vi. Ngoài việc ghi lại chính xác các sự kiện như là lần phân chia đầu tiên, hệ thống nuôi cấy phôi timelapse còn ghi lại những sự kiện chưa được biết đến, chẳng hạn như nguyên phân đa cực, phân chia trực tiếp, phân chia ngược và phân chia bất thường ở phôi tiền làm tổ có thể được đánh giá chi tiết hơn.
Dạng phân chia bất thường phổ biến nhất và gây ra nhiều ảnh hưởng đến phôi là phân chia trực tiếp (Direct Uneven Cleavage – DUC), có nghĩa là trong đó có một phôi bào phân chia trực tiếp từ một tế bào thành ba hoặc nhiều tế bào. DUC nếu xảy ra ở lần phân bào đầu tiên, vật chất di truyền ở các tế bào không đồng đều nhau làm ảnh hưởng tính nguyên vẹn của bộ nhiễm sắc thể của phôi. Các nghiên cứu đã chỉ ra DUC là chỉ số tiên lượng xấu cho sự hình thành và phát triển của phôi. Ngoài ra, một dạng bất thường khác là phân chia sớm (early cleavage hoặc rapid cleavage) - ảnh hưởng đến sự phân bố nhiễm sắc thể trong phôi bào, điều này làm ảnh hưởng đến khả năng phát triển của phôi. Sự nén chặt của phôi trong quá trình hình thành phôi dâu cũng là yếu tố động học giúp đánh giá tiềm năng phát triển lên phôi nang. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy hiện tượng dâu được nén một phần (partially compacted morulae - PCM) là hiện tượng các tế bào tống xuất trong quá trình nén ban đầu hoặc được loại bỏ khi phôi dâu đã nén chặt. Những bất thường này dẫn đến phôi có đánh giá về hình thái và động học hình thái thấp hơn và có thể ảnh hưởng đến chất lượng và khả năng làm tổ của phôi. Sự lệch bội của phôi ảnh hưởng đến khả năng làm tổ và tăng tỉ lệ sẩy thai. Chính vì thế, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT-A) trở thành một kỹ thuật với mục đích cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống trong mỗi lần chuyển. Cùng với sự phát triển của TLS và PGT-A giúp chuyên viên phôi học có nhiều thông tin trong việc lựa chọn phôi cho bệnh nhân trong chu kì thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization – IVF)
Mục tiêu:
Phân tích mối liên quan giữa sự phân chia bất thường, sự nén chặt trong quá trình hình thành phôi dâu và kết quả di truyền của các phôi phát triển thành phôi nang tương ứng.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu đánh giá 835 phôi nang từ 195 chu kỳ ICSI từ 189 bệnh nhân thực hiện xét nghiệm PGT-A. Các phân tích về đặc điểm của phôi là phân chia trực tiếp và sự nén của phôi được thực hiện cho tất cả các phôi nang và chia thành 3 nhóm dựa vào tuổi mẹ: <38 tuổi (n=314), 38–40 tuổi (n=323) và >40 tuổi (n=198).
Ngoài ra, dựa vào sự phân chia bình thường (normal cleavage – NC) hoặc bất thường (anomalous cleavage – AC) của phôi và sự nén hoàn toàn (full compacted morula – FCM) hoặc một phần (partially compacted morulae - PCM) của phôi dâu được chia thành bốn nhóm
(i) sự phân chia bình thường và sự nén hoàn toàn (NC-FCM);
(ii) sự phân chia bất thường và sự nén hoàn toàn (AC-FCM);
(iii) sự phân chia bình thường và phôi nén một phần (NC-PCM);
(iv) sự phân chia bất thường và phôi nén một phần (AC-PCM).
Kết quả
- Trong tổng 832 phôi, phôi phân chia bình thường (NC) là 697 chiếm 83% và phôi dâu nén chặt hoàn toàn (FCM) là 516 phôi chiếm 62%.
- Phôi được đánh giá cả về hình thái và động học hình thái bằng cách sử dụng hệ thống
Embryoscope – KIDScore. Khi đánh giá tỷ lệ phôi lệch bội ở tất cả nhóm tuổi, nhóm phôi phân chia bình thường và sự nén diễn ra hoàn toàn (NC-FCM) có tỷ lệ phôi lệch bội thấp nhất, tỷ lệ này càng tăng ở nhóm AC-PCM. Tuy nhiên, khi xét về độ tuổi của phụ nữ, có sự khác biệt về tỷ lệ phôi lệch bội ở nhóm <38 tuổi và nhóm >40 tuổi có ý nghĩa thống kê trong đánh giá KIDscore (nhóm <38 tuổi p<0,001,
nhóm >40 tuổi p=0,024).
- Về kết quả xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT-A), tỷ lệ lệch bội được đánh giá ở ba nhóm phôi: NC-FCM, NC-PCM và AC-PCM (Hình 1)
- Đối với phụ nữ từ 38 đến 40 tuổi, tỷ lệ lệch bội cao hơn so với < 38 tuổi và cao hơn nhiều đối với phụ nữ >40 tuổi.
- Phôi của phụ nữ nhóm <38 và 38–40 tuổi có tỷ lệ lệch bội tương tự đối với phôi NC-FCM và AC-PCM.
- Ngoài ra, tỷ lệ lệch bội cao đối với những phôi có sự phân chia bình thường nhưng có phôi dâu nén một phần (NC-PCM) có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê chỉ ở phụ nữ <38 tuổi.
Đối với phụ nữ > 40 tuổi, phôi phân chia bình thường với sự nén chặt hoàn toàn (NC-FCM) cho thấy tỷ lệ lệch bội thấp hơn, gần tương đương với tỷ lệ ở phôi của nhóm phụ nữ tuổi 38–40 tuổi. Tuy nhiên, tỷ lệ lệch bội cao hơn ở phôi NC-PCM và AC-PCM.
Kết luận:
Với những phát hiện về sự phân chia bất thường của phôi và sự nén chặt hình thành phôi dâu thông qua hệ thống theo dõi phôi liên tục có thể góp phần trong việc lựa chọn phôi để sinh thiết hoặc chuyển cho bệnh nhân khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm.
Tài liệu tham khảo: De Martin, H., Bonetti, T. C. S., Nissel, C. A. Z., Gomes, A. P., Fujii, M. G., & Monteleone, P. A. A. (2024). Association of early cleavage, morula compaction and blastocysts ploidy of IVF embryos cultured in a time-lapse system and biopsied for genetic test for aneuploidy. Scientific Reports, 14(1), 739.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mô hình trí tuệ nhân tạo dự đoán tỷ lệ mang thai và nguy cơ đa thai sau chuyển phôi tươi - Ngày đăng: 22-12-2024
Bản chất phôi khảm theo các nhóm tuổi mẹ: phân tích 21345 chu kỳ xét nghiệm di truyền tiền làm tổ sàng lọc lệch bội nhiễm sắc thể (Preimplantation genetic testing for aneuploidy – PGT-A) - Ngày đăng: 20-12-2024
Tác động của giấc ngủ đến kết quả chuyển phôi: một nghiên cứu tiến cứu - Ngày đăng: 20-12-2024
Kết quả chu sinh của phụ nữ có tiền sử sẩy thai liên tiếp khi thực hiện chuyển phôi đông lạnh - Ngày đăng: 13-12-2024
Ca sinh sống đầu tiên từ noãn đông lạnh/rã đông sau trưởng thành bằng CAPA-IVM - Ngày đăng: 13-12-2024
Tác động của phẫu thuật nội soi cắt polyp lòng tử cung lên kết quả điều trị thụ tinh trong ống nghiệm trong trường hợp hiếm muộn không rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 13-12-2024
Rối loạn chức năng tuyến giáp và hiếm muộn nữ: Một đánh giá toàn diện - Ngày đăng: 13-12-2024
Mùa hè so với mùa đông: ảnh hưởng của các mùa đối với chất lượng noãn trong chu kỳ thụ tinh ống nghiệm - Ngày đăng: 13-12-2024
Tác động của Bisphenol A và các chất thay thế đối với chất lượng noãn: đánh giá tổng hợp - Ngày đăng: 09-12-2024
Sử dụng sóng siêu âm tần số cao để cải thiện độ di động của tinh trùng - Ngày đăng: 07-12-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK